Thực đơn
Thơ Phân tíchÂm (sound) do sự nhóm họp của một hoặc nhiều nguyên âm tạo nên. Những âm gần giống nhau, không kể các phụ âm đứng trước hay đứng sau hay sự tác động của các dấu gây sự trầm bổng của âm, tạo nên vần trong thơ. Chẳng hạn, âm đơn:
à, ca, cha, đá, lá, taâm kép:
biên, chiêm, chuyên, xuyênBảng phân các loại âm sau đây được trích từ Hệ thống thanh trong tiếng Việt (Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm):
Loại thanh | Tên các thanh | Dấu chỉ thanh | Ghi chú |
---|---|---|---|
Bằng | phù bình thanh trầm thượng thanh | không có dấu dấu huyền | |
Trắc | phù thương thanh trầm thương thanh phù khứ thanh trầm khứ thanh | ngã (~) hỏi (?) sắc (') nặng (.) | |
phù nhập thanh trầm nhập thanh | sắc (') nặng (.) | riêng cho các tiếng đằng sau có phụ âm t, c, p và ch |
Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.
Vần (rhyme) là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ. Có hai loại vần:
Chữ "đấy", "cấy" cùng phát ra một âm "ây" song đều thuộc trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" và thuộc bình thanh.
Vần thể còn được quan niệm là vần giàu hay nghèo:
Ví dụ hai câu dùng vần chính:
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thuGối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông[4]Cưỡng vậnKhi hai vần là vần thông với nhau mà thôi.Người lên ngựa kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuộm màu quan sanLạc vậnKhi hai vần không thuộc vần chính hay vần thông.Người về chiếc bóng năm canhKẻ đi muôn dặm một mình xa xôiTrong thơ Việt, có hai cách gieo vần
Cách gieo vần dùng chữ cuối cùng của câu cũng xuất hiện trong các bài thơ của châu Âu, chẳng hạn như hai câu trích trong bài On His Being Arrived to the Age of Twenty-three của nhà thơ người Anh John Milton (tiếng Anh):
That I to manhood am arrived so near,And inward ripeness doth much less appear,Hay tạm dịch là:
Tuổi thành xuân đến quá nhanhĐã nào một chút trưởng thành trong tôiỞ đây âm "ia" (của near và appear) được dùng để làm vần nối hai câu thơ.
Điệu (rhythm), hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được chọn và nhịp điệu ngắt câu. Nhạc trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần, tiết tấu và từ. Thơ lục bát, ca dao là một thể loại giàu nhạc tính.
Luật làm thơ (rule): Vần bằng (hay cũng gọi là "bình") được ký hiệu bằng B, vần trắc được ký hiệu bằng T, vần không theo luật ký hiệu bằng số 0 (vần tự do, có thể là thanh bất kì, bằng hoặc trắc).
Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn.
Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ở Việt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.
Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ở câu tám. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay diễn đạt sự đột ngột. Thơ lục bát cũng cần tuân thủ luật về thanh và vần, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.
Luật thanh trong thơ lục bát; Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:
Câu số | Vần | |||||||
1 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | ||
2 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | 0 | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
---|
Ví dụ:
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân (B - T - B)
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều
(Tố Hữu)
Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.
Ví dụ:
Có xáo thì xáo nước trong T-T-B
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B
Hay:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B
Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của cậu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Như thế ngoài vần chân có cả ở hai câu 6, 8lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Ngoài đối thanh còn có đối ý:
Dù mặt lạ, đã lòng quen
(Bích câu kì ngộ)
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau...
Người thương/ ơi hỡi/ người thương
Đi đâu/ mà để/ buồng hương/ lạnh lùng
Đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3:
Chồng gì anh/ vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5...
Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp giản dị mà biến hóa vô cùng linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó rất dồi dào khả năng diễn tả. Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thểthơ này
Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần... đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.
Bên cạnh lục bát truyền thống còn có lục bát biến thể là những câu có hình thức lục bát nhưng không phải trên sáu dưới tám mả có sự co giãn nhất định về âm tiết về vị trí hiệp vần...Hiện tượng lục bát biến thể là vấn đề đáng chú ý trong ca dao, chúng ta có thể xem xét một số trường hợp: lục bát biến thể tăng, tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng.
Xét về mặt nội dung thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu... do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát vì nó có khảnăng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên.... Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Ca dao, tiếng nói mang đầy âm sắc dân tộc cũng được chuyển tải bằng lục bát. Việc sáng tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Sau này các nhà thơ hiện đại cũng đã rất thành công khi vận dụng thể lục bát trong các sáng tác của mình. Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn tiêu biểu cho dòng lục bát dân gian. Dòng lục bát trí tuệ có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận trong phong trào Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Dòng lục bát hiện đại có Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu...
Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nền nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Song thất là hai câu bảy chữ nối theo hai câu lục bát. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã được Đoàn Thị Điểm diễn nôm lại bằng thể thơ này. Trong câu bảy chữ trên, chữ thứ ba là vần trắc, chữ thứ năm là vần bình, chữ thứ bảy là vần trắc; trong câu bảy chữ dưới, chữ thứ ba là vần bình, thứ năm là vần trắc, và chữ thứ bảy là vần bình. Hai câu lục bát tiếp sau thì theo luật thường lệ.
Câu số | Vần | |||||||
1 | 0 | 0 | T | 0 | B | 0 | T | |
2 | 0 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | |
3 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | ||
4 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | 0 | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
---|
Chữ cuối cùng của câu có bảy chữ trên vần với chữ thứ năm của cây bảy chữ dưới, chữ cuối câu bảy chữ ở dưới vần với chữ cuối của câu sáu chữ trong hai câu lục bát tiếp theo, chữ cuối câu sáu chữ lục bát vần với chữ thứ sáu của câu có tám chữ, và chữ cuối của câu tám chữ lục bát vần với chữ thứ năm của câu bảy chữ tiếp theo. Tuy nhiên, chữ cuối câu lục bát tám chữ cũng có thể vần với chữ thứ ba câu bảy chữ, biến đổi âm trong vần chữ này đổi sang vần bình. Do đó, chữ thứ ba trong câu bảy chữ trên có thể là trắc hay bằng.
Câu số | Vần | |||||||
1 | 0 | 0 | 0 | 0 | B | 0 | T | |
2 | 0 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | |
3 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | ||
4 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | 0 | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
---|
Nếu chữ thứ hai là vần bằng thì chữ thứ tư là vần trắc.
Câu số | Vần | |||
1 | 0 | T | 0 | B |
2 | 0 | B | 0 | T |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 |
---|
Ngược lại, nếu chữ thứ hai là vần trắc thì chữ thứ tư là vần bằng.
Câu số | Vần | |||
1 | 0 | B | 0 | T |
2 | 0 | T | 0 | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 |
---|
Song nhiều bài thơ không theo luật ở trên.
Bão đi thong thảNhư con bò gầyTương tự như luật của thơ bốn chữ ở trên, song cũng nhiều trường hợp không theo luật.
Hôm nay đi chùa HươngHoa cỏ mờ hơi sươngCùng thầy me em dậyEm vấn đầu soi gương[8]Dùng chữ cuối cùng, với cách gieo vần như vần chéo hoặc vần ôm:
Vần chéoQuê hương là gì hở mẹMà cô giáo dạy phải yêuQuê hương là gì hở mẹAi đi xa cũng nhớ nhiềuĐỗ Trung Quân - Quê HươngVần ômXuân hồng có chàng tới hỏi:-- Em thơ, chị đẹp em đâu?-- Chị tôi tóc xõa ngang đầuĐi bắt bướm vàng ngoài nộiHuyền Kiêu - Tình sầuDo ảnh hưởng của Thất ngôn tứ tuyệt trong thơ Đường, thơ bảy chữ hiện nay vẫn còn mang âm hưởng luật của nó. Có hai loại câu:
Vần bằngCâu số | Vần | ||||||
1 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | B |
2 | 0 | T | 0 | B | 0 | T | B |
3 | 0 | T | 0 | B | 0 | T | T |
4 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
---|
Hay gần đây hơn:
Em ở thành Sơn chạy giặc vềTôi từ chinh chiến cũng ra điCách biệt bao ngày quê Bất BạtChiều xanh không thấy bóng Ba Vì(Quang Dũng – Đôi mắt người Sơn Tây)Vần trắcCâu số | Vần | ||||||
1 | 0 | T | 0 | B | 0 | T | B |
2 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | B |
3 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | T |
4 | 0 | T | 0 | B | 0 | T | B |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
---|
Hiện nay, thể thơ này được cải biên và nó chỉ còn là:
Câu số | Vần | ||||||
1 | 0 | B | 0 | T | 0 | B | 0 |
2 | 0 | T | 0 | B | 0 | T | 0 |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
---|
Vần | ||||||||
0 | 0 | T | 0 | B | B | 0 | T | |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
---|
Vần | ||||||||
0 | 0 | B | 0 | T | T | 0 | B | |
Chữ thứ | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
---|
Nhưng nhiều lúc cũng không như thế.
Muốn cho thơ tám chữ thêm âm điệu, một số nhà thơ thường gieo vần chữ thứ tám của câu trên với chữ thứ năm hay sáu của câu dưới:
Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổiNhững hào hùng, uất hận gối lên nhauCao Tần - Ta làm gì cho hết nửa đời sau?Thực đơn
Thơ Phân tíchLiên quan
Thơ Thơ Ngây Thơ Nguyễn Thơ Việt Nam Thơ bảy bước Thơ thơ Thơ tự do Thơ tượng trưng Thơ mới Thơ ĐườngTài liệu tham khảo
WikiPedia: Thơ http://www.gardendigest.com/poetry/quoap1.htm http://www3.ttvnol.com/thica.ttvn https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Poetry...