Phân tích Thơ

Âm

Bài chi tiết: Tiếng Việt

Âm (sound) do sự nhóm họp của một hoặc nhiều nguyên âm tạo nên. Những âm gần giống nhau, không kể các phụ âm đứng trước hay đứng sau hay sự tác động của các dấu gây sự trầm bổng của âm, tạo nên vần trong thơ. Chẳng hạn, âm đơn:

à, ca, cha, đá, lá, ta

âm kép:

biên, chiêm, chuyên, xuyên

Bảng phân các loại âm sau đây được trích từ Hệ thống thanh trong tiếng Việt (Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Dương Quảng Hàm):

Loại thanhTên các thanhDấu chỉ thanhGhi chú
Bằngphù bình thanh
trầm thượng thanh
không có dấu
dấu huyền
Trắcphù thương thanh
trầm thương thanh
phù khứ thanh
trầm khứ thanh
ngã (~)
hỏi (?)
sắc (')
nặng (.)
phù nhập thanh
trầm nhập thanh
sắc (')
nặng (.)
riêng cho các tiếng
đằng sau có phụ âm
t, c, p và ch

Nếu lựa từ sao cho có âm và thanh tương hợp thì khi đọc lên sẽ nghe êm tai, ta gọi lời văn có vần. Hai tiếng vần với nhau khi có âm tương tự và có cùng thanh (hoặc là cùng bình thanh hoặc là cùng trắc thanh). Trong thơ, vấn đề hợp vần là điều cốt yếu. Sự phối trí âm thanh nhịp điệu là yếu tố cơ bản của thơ.

Vần

Vần (rhyme) là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Đây là một quy luật để nối các câu trong bài thơ với nhau. Thường vần được dùng để nối câu gieo vào chữ cuối cùng của câu thơ. Có hai loại vần:

  • vần bình: những chữ không dấu hoặc dấu huyền — ba, bà
  • vần trắc: những chữ có dấu hỏi, ngã, sắc, nặng — bả, bã, bá, bạ

Chữ "đấy", "cấy" cùng phát ra một âm "ây" song đều thuộc trắc thanh. Những tiếng "dâu", "màu", "sầu" có âm "âu" và "au" và thuộc bình thanh.

Vần thể còn được quan niệm là vần giàu hay nghèo:

  • Vần giàu (hay còn gọi là Vần Chính): những chữ có cùng âm và thanh
    • Thanh bằng: Phương, sương, cường, trường
    • Thanh trắc: Thánh, cảnh, lãnh, ánh
  • Vần nghèo (hay còn gọi là Vần Thông): đồng thanh nhưng với âm tương tự
    • Thanh bằng: Minh, khanh, huỳnh, hoành
    • Thanh trắc: Mến, lẽn, quyện, hển

Ví dụ hai câu dùng vần chính:

Lầu Tần chiều nhạt vẻ thuGối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông[4]Cưỡng vậnKhi hai vần là vần thông với nhau mà thôi.Người lên ngựa kẻ chia bàoRừng phong thu đã nhuộm màu quan sanLạc vậnKhi hai vần không thuộc vần chính hay vần thông.Người về chiếc bóng năm canhKẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Trong thơ Việt, có hai cách gieo vần

  • Gieo vần ở giữa câu (yêu vận hay "vần lưng"): Chữ cuối của câu trên vần với một chữ nằm bên trong câu dưới như trong thể thơ lục bát, chữ cuối câu có sáu chữ vần với chữ thứ sáu của câu tám chữ sau đó. Chẳng hạn truyện Kiều (1(6)-2(6)) (2(8)-3(6)) (3(8)-4(6)) (4(8)-..):
Người về chiếc bóng năm canhKẻ đi muôn dặm một mình xa xôiVầng trăng ai xẻ làm đôi?Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
  • Gieo vần ở cuối câu (cước vận hay "vần chân"): Các chữ ở cuối câu vần với nhau.
Vần tiếpCác cặp trắc bằng xen kẽ tiếp nhau. Chẳng hạn Xuân Diệu trong Tương Tư Chiều (2,3) (4,5) (6,7):
  1. Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm,
  2. Anh nhớ em, em hỡi! Anh nhớ em.
  3. Không gì buồn bằng những buổi chiều êm,
  4. Mà ánh sáng đều hòa cùng bóng tối.
  5. Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối;
  6. Vài miếng đêm u uất lẩn trong cành;
  7. Mây theo chim về dãy núi xa xanh
  8. Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
  9. Không gian xám tưởng sắp tan thành lệ.
Vần chéoTrong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ ba và chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư. Chẳng hạn Anh Thơ trong bài Tiếng chim tu hú (1,3) (2,4):
  1. Nắng hè đỏ hoa gạo
  2. Nước sông Thương trôi nhanh
  3. Trên đường đê bước rảo
  4. Gió nam giỡn lá cành
Nhiều khi chỉ cần chữ cuối câu thứ hai vần với câu thứ tư mà thôi. Chẳng hạn Quang Dũng trong bài Đôi bờ (2,4):
  1. Xa quá rồi em người mỗi ngả
  2. Bên này đất nước nhớ thương nhau
  3. Em đi áo mỏng buông hờn tủi
  4. Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
Vần ômTrong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu thứ nhất vần với câu thứ tư và chữ cuối câu hai vần với câu thứ ba. Vần trắc ôm vần bằng, hay ngược lại. Chẳng hạn Nguyên Sa trong Áo lụa Hà Đông (1,4) (2,3):
  1. Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
  2. Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
  3. Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
  4. Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Vần ba tiếngTrong thi đoạn bốn câu, chữ cuối câu một, câu hai và câu thứ tư vần với nhau. Câu ba khác vần. Chẳng hạn Thâm Tâm trong Tống Biệt Hành (1,2,3).
  1. Đưa người ta không đưa qua sông
  2. Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
  3. Bóng chiều không thắm không vàng vọt
  4. Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Cách gieo vần dùng chữ cuối cùng của câu cũng xuất hiện trong các bài thơ của châu Âu, chẳng hạn như hai câu trích trong bài On His Being Arrived to the Age of Twenty-three của nhà thơ người Anh John Milton (tiếng Anh):

That I to manhood am arrived so near,And inward ripeness doth much less appear,

Hay tạm dịch là:

Tuổi thành xuân đến quá nhanhĐã nào một chút trưởng thành trong tôi

Ở đây âm "ia" (của near và appear) được dùng để làm vần nối hai câu thơ.

Điệu

Điệu (rhythm), hay còn gọi là nhạc điệu, tạo nên do âm thanh của từ được chọn và nhịp điệu ngắt câu. Nhạc trong thơ được tạo nên bởi ba yếu tố: vần, tiết tấu và từ. Thơ lục bát, ca dao là một thể loại giàu nhạc tính.

  • Âm hưởng của vần:
(a)- Vần bằng thường gây cảm giác nhẹ nhàng, mềm mại.Gió mơn man sợi nắng mànhSương còn đu ngọn lá xanh miệt màiDương gian hé rạng hình hàiTrời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi[5](b) - Vần trắc thường gây cảm giác mạnh mẽ, động đậy, tỉnh thức.Gió mơn man sợi nắng mànhSương còn đu ngọn lá xanh miệt màiDương gian hé rạng hình hàiTrời se sẽ lạnh, đất ngai ngái mùi
  • Tiết tấu của câu: Tiết tấu là nói đến cái nhịp, cái điệu của câu thơ. dựa vào chỗ ngắt đoạn, tức chỗ chia câu thành từng vế, mỗi vế có nghĩa trọn vẹn. Đó là nhịp dài (--), khi ngâm người ta ngừng lại ngân nga lâu một chút. Ngoài ra, trong mỗi vế, khi ngâm tùy theo hứng, người ta cũng có thể ngừng lại ngân nga ngắn hơn ở những chỗ vế chia thành từng bộ phận, đó là nhịp ngắn (-).
Dương gian (-) hé rạng (-) hình hài (--)Trời (-) se sẽ lạnh (-), đất ngai (--) ngái mùi(--)
  • Nhịp trong thơ: tạo nên do sự phân định của câu và của từ, tương tự khi viết cho dấu phẩy, khi đọc ngưng hơi.
Nhịp (4/4) - (2/2/2/2)Em ngồi cành trúc (--) em tựa cành mai (--)Đông đào (-) tây liễu (-) biết ai (-) bạn cùng (--)Nhịp (2/2/2) - (2/2/2/2)Trời mưa (-) ướt bụi (-) ướt bờ (-)Ướt cây (-) ướt lá (--) ai ngờ (-) ướt em (--)Nhịp (2/4) - (2/2/2/2)Yêu mình (--) chẳng lấy được mình (--)Tựa mai (-) mai ngã (--) tựa đình (-) đình xiêu (--)Nhịp (2/4) - (4/4)Đố ai (-) quét sạch lá rừng (--)Để ta khuyên gió (--) gió đừng rung cây (--)Nhịp (2/4) - (2/4/2)Hỡi cô (-) tát nước bên đàng (--)Sao cô (-) múc ánh trăng vàng (--) đổ đi (--)Nhịp (4/2) - (2/4/2)Trách người quân tử (-) bạc tình (--)Chơi hoa (--) rồi lại bẻ cành (--) bán rao (--)Nhịp (3/2/2) - (4/3/2)Đạo vợ chồng (-) thăm thẳm (-) giếng sâu (--)Ngày sau cũng gặp (--) mất đi đâu (-) mà phiền (--)
  • Nhạc tính của từ: Theo ngữ học, mỗi từ đơn của ta thường là một âm tiết, khi phát lên nhẹ hay mạnh, trong hay đục là tùy theo vị trí phát âm của nó trong khẩu cung (kể từ môi đến cuống họng, kể cả độ mở của miệng). Một từ được phát lên tại vị trí nào trong khẩu cung là phải chịu ảnh hưởng của bốn yếu tố tạo nên nó: nguyên âm, phụ âm đầu, phụ âm cuối và thanh. Vì thế từ nào có:
  1. nguyên âm bổng như: i, ê, e
  2. phụ âm vang như: m, n, nh, ng
  3. thanh bổng như: không dấu, dấu sắc, dấu hỏi, thì từ được phát ra, âm sẽ cao, trong và nhẹ.
Ngược lại, từ nào gặp phải:
  1. nguyên âm trầm: u, ô, o,
  2. phụ âm tắc: p, t, ch, c,
và thanh trầm: dấu huyền, dấu ngã, dấu nặng thì từ phát ra âm sẽ đục và nặng.Sự trong đục của các từ ngắt nhịp trong câu, và nhất là của các từ dùng làm vần có ảnh hưởng nhiều nhất đến nhạc tính của thơ.Hôm qua (-) tát nước đầu đình (--)Bỏ quên cái áo (-) Trên cành hoa sen (--)Em được (--) thì cho anh xin (--)Hay là (-) em để làm tin (-) trong nhà. (--)Những từ ngắt nhịp và những từ dùng làm vần trong 4 câu thơ này hầu hết đều có những yếu tố tạo nên âm vang và trong, nên nhạc thơ nghe vui, diễn tả được tình cảm trong sáng, yêu đời của chàng trai ở đây.Nụ tầm xuân (-) nở ra xanh biếc. (--)Em đã có chồng (--) anh tiếc (-) lắm thay. (--)Âm "iếc" trong 2 từ "biếc" và "tiếc" lấy làm vần ở đây có 2 nguyên âm bổng (iê) vút cao với thanh sắc cũng thuộc loại thanh bổng nhưng đã bị đứt hơi, tắc nghẽn bởi phụ âm cuối ‘c’, được mệnh danh là âm tắc, nên khi đọc lên nghe như tiếng nấc, nhạc thơ vì vậy chậm lại, nghe nghẹn ngào, tức tưởi. Như thế, vần "iếc" ở đây gieo rất đắt, đã cực tả được nỗi tiếc nuối đứt ruột của chàng trai khi trở lại chốn cũ, gặp lại người xưa, tình mình thì đang nồng, người mình yêu lại quá đẹp, nhưng than ôi muộn mất rồi, vì nay nàng đã là gái có chồng!Yêu ai tha thiết, thiết thaÁo em hai vạt trải ra chàng ngồi.Đôi khi để đảm bảo cho nhạc tính của câu ca dao (âm luật, âm vận), những âm tiết của từ kép có thể đảo ngược vị trí. Như câu ca dao trên hai âm tiết "tha thiết" được đảo thành "thiết tha" vì thể lục bát chỉ gieo vần bằng (tha, ra).Thơ hoặc ca dao hay sử dụng từ láy, nhờ sự lập lại toàn thể hay một số yếu tố của từ gốc mà từ láy khi phát âm, hai điểm phát âm sẽ trùng nhau (từ láy hoàn toàn) hay tiến sát gần nhau (từ láy không hoàn toàn) tạo thành một chuỗi hòa âm, giúp cho nhạc điệu của thơ vừa phong phú, vừa tăng uyển chuyển, nhịp nhàng.

Luật

Luật làm thơ (rule): Vần bằng (hay cũng gọi là "bình") được ký hiệu bằng B, vần trắc được ký hiệu bằng T, vần không theo luật ký hiệu bằng số 0 (vần tự do, có thể là thanh bất kì, bằng hoặc trắc).

Thơ lục bát

Bài chi tiết: Thơ lục bát

Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn.


Lục bát là một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (lục bát và song thất lục bát). Thơ lục bát ở Việt Nam được truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ngày nay thơ lục bát vẫn được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Thơ lục bát rất giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.

Thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một thể thơ dân tộc ta, thơ lục bát bao gồm có thể từ hai câu trở lên. Trong đó thì cứ hai câu ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu 6 tiếng (câu lục) và một câu 8 tiếng (câu bát), và xen kẽ cứ câu lục là câu bát rồi đến cặp câu khác, số câu trong bài không giới hạn. Thông thường thì bắt đầu bằng câu sáu chữ và chấm dứt ở câu tám. Nhưng cũng có khi kết thúc bằng câu sáu để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay diễn đạt sự đột ngột. Thơ lục bát cũng cần tuân thủ luật về thanh và vần, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh giúp cho câu thơ trở nên hài hoà. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.

Luật thanh trong thơ lục bát; Thơ lục bát có 2 câu chuẩn là câu lục và câu bát, cũng như thơ Đường luật, nó tuân thủ quy tắc nhất, tam, ngũ bất luận; nhị, tứ, lục phân minh. Nghĩa là các tiếng thứ 1,3,5 trong câu có thể tự do về thanh, nhưng các tiếng thứ 2,4,6 thì phải theo luật chặt chẽ. Luật như sau:

Câu sốVần
10B0T0B
20B0T0B0B
Chữ thứ12345678

Ví dụ:

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân (B - T - B)

Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều

(Tố Hữu)

Về phối thanh, chỉ bắt buộc các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu thứ tám phải khác dấu, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao

Thế nhưng đôi khi có thể tự do về tiếng thứ hai của câu lục hay câu bát, có thể biến nó thành thanh trắc. Hoặc là câu lục giữ nguyên mà câu bát thì lại theo thứ tự T-B-T-B những câu thơ thế này ta gọi là lục bát biến thể.

Ví dụ:

Có xáo thì xáo nước trong T-T-B

Đừng xáo nước đục đau lòng cò con T-T-B-B

Hay:

Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non T-B-T-B

Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có cách gieo vần khác với các thơ khác. Có nhiều vần được gieo trong thơ nhiều câu chứ không phải là một vần, điều này tạo cho thơ lục bát tính linh hoạt về vần. Thể thơ lục bát thường được gieo vần bằng; tiếng cuối của câu lục hiệp với tiếng thứ sáu của cậu bát, tiếng thứ sáu của câu bát hiệp với tiếng của câu lục tiếp; cứ như thế đến hết bài lục bát:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Như thế ngoài vần chân có cả ở hai câu 6, 8lại có cả vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Đó là đối thanh trong hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia bắt buộc là thanh ngang và ngược lại.

Ví dụ:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Ngoài đối thanh còn có đối ý:

Dù mặt lạ, đã lòng quen

(Bích câu kì ngộ)

Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thơ lục bát thông thường ngắt nhịp chẵn, là nhịp 2/2/2, hoặc 4/4 để diễn tả những tình cảm thương yêu, buồn đau...

Người thương/ ơi hỡi/ người thương

Đi đâu/ mà để/ buồng hương/ lạnh lùng

Đôi khi để nhấn mạnh nên người ta đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3:

Chồng gì anh/ vợ gì tôi

Chẳng qua là cái nợ đời chi đây

Khi cần diễn đạt những điều trắc trở, khúc mắc, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng bất thường, bất định thì có thể chuyển sang nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5...

Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp giản dị mà biến hóa vô cùng linh hoạt, phong phú và đa dạng, nó rất dồi dào khả năng diễn tả. Đa số ca dao được sáng tác theo thể lục bát. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu có hơn 90% lời thơ trong ca dao được sáng tác bằng thểthơ này

Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy về cơ bản thể thơ lục bát vẫn là thể thơ nền nã, chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần... đó là dạng lục bát biến thể. Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng phá vỡ khuôn hình 6/8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật, cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.

Bên cạnh lục bát truyền thống còn có lục bát biến thể là những câu có hình thức lục bát nhưng không phải trên sáu dưới tám mả có sự co giãn nhất định về âm tiết về vị trí hiệp vần...Hiện tượng lục bát biến thể là vấn đề đáng chú ý trong ca dao, chúng ta có thể xem xét một số trường hợp: lục bát biến thể tăng, tiếng lục bát biến thể giảm số tiếng.

Xét về mặt nội dung thơ lục bát diễn đạt tâm trạng nhiều chiều của nhân vật trữ tình. Thông thường người bình dân hay mượn thể loại văn vần này để bày tỏ nỗi lòng, tâm trạng của mình trong cuộc sống, sinh hoạt, tình yêu... do vậy thể thơ chủ yếu của ca dao vẫn là thể lục bát vì nó có khảnăng diễn đạt tất thảy những cung bậc cảm xúc như: tình yêu trai gái, tình yêu gia đình, xóm làng, yêu đồng ruộng, đất đai, yêu lao động, yêu thiên nhiên.... Dân tộc nào cũng có một thể thơ, một điệu nhạc phù hợp với cách điệu cuộc sống của dân tộc đó. Lục bát là thể thơ hài hoà với nhịp đập của con tim, nếp nghĩ, cách sinh hoạt của người dân Việt Nam. Ca dao, tiếng nói mang đầy âm sắc dân tộc cũng được chuyển tải bằng lục bát. Việc sáng tạo thể thơ độc đáo này thể hiện đời sống tinh thần phong phú của người bình dân, rất nhiều nhà thơ thành công nhờ thể thơ này. Những truyện thơ vĩ đại nhất của Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên đều được thể hiện bằng hình thức thơ Lục bát. Sau này các nhà thơ hiện đại cũng đã rất thành công khi vận dụng thể lục bát trong các sáng tác của mình. Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn tiêu biểu cho dòng lục bát dân gian. Dòng lục bát trí tuệ có thể xem Lửa thiêng của Huy Cận trong phong trào Thơ Mới là thành tựu mở đầu. Dòng lục bát hiện đại có Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Tố Hữu...

Bởi cái chất duyên dáng, kín đáo, không ồn ào của lối nghĩ phương Đông, lục bát đã giữ cho mình luôn có cái vẻ nền nã. Ngày nay thể lục bát vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Thơ song thất lục bát

Song thất là hai câu bảy chữ nối theo hai câu lục bát. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã được Đoàn Thị Điểm diễn nôm lại bằng thể thơ này. Trong câu bảy chữ trên, chữ thứ ba là vần trắc, chữ thứ năm là vần bình, chữ thứ bảy là vần trắc; trong câu bảy chữ dưới, chữ thứ ba là vần bình, thứ năm là vần trắc, và chữ thứ bảy là vần bình. Hai câu lục bát tiếp sau thì theo luật thường lệ.

Câu sốVần
100T0B0T
200B0T0B
30B0T0B
40B0T0B0B
Chữ thứ12345678
Chàng thì đi cõi xa mưa gióThiếp lại về buồng gối chănĐoái trông theo đã cách ngănTuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh

Chữ cuối cùng của câu có bảy chữ trên vần với chữ thứ năm của cây bảy chữ dưới, chữ cuối câu bảy chữ ở dưới vần với chữ cuối của câu sáu chữ trong hai câu lục bát tiếp theo, chữ cuối câu sáu chữ lục bát vần với chữ thứ sáu của câu có tám chữ, và chữ cuối của câu tám chữ lục bát vần với chữ thứ năm của câu bảy chữ tiếp theo. Tuy nhiên, chữ cuối câu lục bát tám chữ cũng có thể vần với chữ thứ ba câu bảy chữ, biến đổi âm trong vần chữ này đổi sang vần bình. Do đó, chữ thứ ba trong câu bảy chữ trên có thể là trắc hay bằng.

Câu sốVần
10000B0T
200B0T0B
30B0T0B
40B0T0B0B
Chữ thứ12345678
Nước trong chảy lòng phiền chẳng rửaCỏ xanh thơm dạ nhớ khó quênNhủ rồi tay lại trao liềnBước đi một bước lại vin áo chàng

Thơ bốn chữ

Bài chi tiết: Thơ bốn chữ

Nếu chữ thứ hai là vần bằng thì chữ thứ tư là vần trắc.

Câu sốVần
10T0B
20B0T
Chữ thứ1234
Bão đến ầm ầmNhư đoàn tàu hỏa[6]

Ngược lại, nếu chữ thứ hai là vần trắc thì chữ thứ tư là vần bằng.

Câu sốVần
10B0T
20T0B
Chữ thứ1234
Chim ngoài cửa sổMổ tiếng võng kêu[7]

Song nhiều bài thơ không theo luật ở trên.

Bão đi thong thảNhư con bò gầy

Thơ năm chữ

Bài chi tiết: Thơ năm chữ

Tương tự như luật của thơ bốn chữ ở trên, song cũng nhiều trường hợp không theo luật.

Hôm nay đi chùa HươngHoa cỏ mờ hơi sươngCùng thầy me em dậyEm vấn đầu soi gương[8]

Thơ sáu chữ

Bài chi tiết: Thơ sáu chữ

Dùng chữ cuối cùng, với cách gieo vần như vần chéo hoặc vần ôm:

Vần chéoQuê hương là gì hở mẹMà cô giáo dạy phải yêuQuê hương là gì hở mẹAi đi xa cũng nhớ nhiềuĐỗ Trung Quân - Quê HươngVần ômXuân hồng có chàng tới hỏi:-- Em thơ, chị đẹp em đâu?-- Chị tôi tóc xõa ngang đầuĐi bắt bướm vàng ngoài nộiHuyền Kiêu - Tình sầu

Thơ bảy chữ

Bài chi tiết: Thơ bảy chữ

Do ảnh hưởng của Thất ngôn tứ tuyệt trong thơ Đường, thơ bảy chữ hiện nay vẫn còn mang âm hưởng luật của nó. Có hai loại câu:

Vần bằng
Câu sốVần
10B0T0BB
20T0B0TB
30T0B0TT
40B0T0BB
Chữ thứ1234567
Quanh năm buôn bánmom sôngNuôi đủ năm con với một chồngLặn lội thân khi quãng vắngEo sèo mặt nước buổi đò đông[9]Tú Xương – Thương vợ

Hay gần đây hơn:

Em ở thành Sơn chạy giặc vềTôi từ chinh chiến cũng ra điCách biệt bao ngày quê Bất BạtChiều xanh không thấy bóng Ba Vì(Quang Dũng – Đôi mắt người Sơn Tây)Vần trắc
Câu sốVần
10T0B0TB
20B0T0BB
30B0T0BT
40T0B0TB
Chữ thứ1234567
Lẳng lặngnghechúc nhau:Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râuPhen này ông quyết đi buôn cốiThiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu[10]

Hiện nay, thể thơ này được cải biên và nó chỉ còn là:

Câu sốVần
10B0T0B0
20T0B0T0
Chữ thứ1234567
Ta về cúi mái đầu sương điểmNghe nặng từ tâm lượng đất trờiCảm ơn hoa đã vì ta nởThế giới vui từ mỗi lẻ loiTô Thùy Yên – Ta về

Thơ tám chữ

Bài chi tiết: Thơ tám chữ
  • Chữ cuối có vần trắc thì chữ thứ ba là vần trắc, chữ thứ năm và sáu là vần bằng
Vần
00T0BB0T
Chữ thứ12345678
  • Chữ cuối có vần bằng thì chữ thứ ba là vần bằng, chữ thứ năm và sáu là vần trắc.
Vần
00B0TT0B
Chữ thứ12345678

Nhưng nhiều lúc cũng không như thế.

Cách gieo vần
Vần tiếpEm cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé,Tôi sẽ trách -- cố nhiên -- nhưng rất nhẹ;Nếu trót đi, em hãy gắng quay về,Tình mất vui lúc đã vẹn câu thềĐời chỉ đẹp những khi còn dang dở.Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ,Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...Hồ Dzếnh - Ngập NgừngVần chéoTrong ánh nắng hạt sương dần nhẹ bỗngRồi tan vào thoáng đãng trời xanhCánh hoa mỏng rập rờn với gióCó nhớ về hạt sương sớm long lanh?Hải Kỳ - Giấc mơVần ômĐêm Trường Sơn. Lá với nước rầm rìHơi đá lạnh nép mái nhà nghe ngóngChúng tôi ngồi xòe tay trên lửa nóngMáu bàn tay mang hơi lửa vào timNguyễn Khoa Điềm - Bếp lửa rừng

Muốn cho thơ tám chữ thêm âm điệu, một số nhà thơ thường gieo vần chữ thứ tám của câu trên với chữ thứ năm hay sáu của câu dưới:

Sàn gác trọ những tâm hồn bão nổiNhững hào hùng, uất hận gối lên nhauCao Tần - Ta làm gì cho hết nửa đời sau?

Dạng (form)

  1. Thơ lục bát
  2. Thơ song thất lục bát
  3. Thơ bốn chữ
  4. Thơ năm chữ
  5. Thơ sáu chữ
  6. Thơ bảy chữ
  7. Thơ tám chữ
  8. Thơ tự do